Trong một nghiên cứu gần đây được công bố trên tạp chí Frontiers in Nutrition, các nhà nghiên cứu đã so sánh hiệu quả của dầu trai và dầu cá trong việc ngăn ngừa xơ vữa động mạch ở chuột apolipoprotein E-null (ApoE -/− ). Phát hiện của họ cho thấy việc bổ sung dầu trai (MO) trong 12 tuần vượt trội đáng kể so với dầu cá (FO) trong việc ngăn ngừa sự tích tụ mảng xơ vữa động mạch trong động mạch chủ. Những con chuột được bổ sung MO còn có hàm lượng lắng đọng lipid, đại thực bào (trong xoang động mạch chủ) và tế bào cơ trơn (SMC) thấp hơn so với những con chuột được bổ sung FO. Các phân tích về tác động của MO và FO trên động mạch chủ cho thấy hiệu lực của MO có thể là do khả năng điều hòa quá mức đường dẫn tín hiệu p38MAPK/NF-κB của nó.
Xơ vữa động mạch là sự tích tụ chất béo, cholesterol và các chất khác trong và trên thành động mạch. Sự tích tụ này, được gọi là mảng bám, dẫn đến sự dày lên hoặc xơ cứng của động mạch, làm tăng đáng kể nguy cơ mắc bệnh động mạch vành, bệnh động mạch ngoại biên và bệnh động mạch cảnh sau đó. Nghiên cứu đã tiết lộ rằng các cơ chế quan trọng củng cố sự khởi đầu của chứng xơ vữa động mạch là tình trạng viêm mãn tính và rối loạn chuyển hóa lipid bình thường.
Những thập kỷ qua đã chứng kiến sự quan tâm ngày càng tăng của khoa học về tiềm năng của lipid chức năng trong vai trò can thiệp chống lại chứng xơ vữa động mạch. Các loại dầu được làm giàu bằng axit béo không bão hòa đa n-3 (n-3 PUFA), chủ yếu là dầu cá (FO), đã nhận được nhiều sự chú ý nhất, với các nghiên cứu phát hiện ra rằng những con chuột bị loại bỏ thụ thể lipoprotein mật độ thấp (LDL) được nuôi bằng FO nhận được sự chú ý đáng kể. vùng tổn thương xơ vữa động mạch thấp hơn so với nhóm dùng giả dược. Mô hình chuột apolipoprotein E-null (ApoE −/− ) là một đại diện chuột cực kỳ phổ biến về các tổn thương ở người. Các nghiên cứu sử dụng hệ thống in vivo này đã chỉ ra rằng lượng PUFA n-3 làm giảm nguy cơ dày lớp nội trung mạc động mạch cảnh.
Cơ chế hoạt động được cho là do vai trò của n-3 PUFA trong việc cải thiện quá trình chuyển hóa lipid và đặc tính chống viêm của nó. Một nguồn PUFA n-3 khác bị bỏ qua phần lớn là dầu trai (MO). Các ấn phẩm trước đây của nhóm nghiên cứu hiện tại đã tiết lộ rằng MO cải thiện các đặc điểm đường huyết ở cả nhóm chuột và người. Đáng ngạc nhiên là cả nhóm nghiên cứu này và các nhóm nghiên cứu khác đều quan sát thấy MO có hiệu quả cao hơn FO đồng thời thể hiện thêm các đặc tính chống viêm mạnh mẽ trong điều trị viêm khớp dạng thấp, đái tháo đường týp 2 (T2DM) và triacylglycerol huyết thanh dư thừa (TG).
Với những lợi ích này và tiềm năng nuôi bền vững với môi trường do trai mang lại, nghiên cứu này nhằm mục đích điều tra xem hiệu quả chống xơ vữa động mạch của MO có phù hợp hoặc vượt trội so với các đối tác có nguồn gốc từ cá hay không.
Dầu trai sử dụng trong nghiên cứu này thu được bằng phương pháp đông khô sau đó chiết bằng chất lỏng siêu tới hạn. FO và CO được mua từ các nhà phân phối được cấp phép. Nhóm mẫu bao gồm chuột đực C57BL/6 J sáu tuần tuổi (loại hoang dã [WT]; n = 6) và chuột đực ApoE -/− C57BL/6 J ( n = 24) cùng tuổi. Sau một tuần làm quen với khí hậu, nhóm ApoE -/− được chỉ định ngẫu nhiên vào một trong bốn biện pháp can thiệp thử nghiệm – dầu ngô (CO), FO, MO hoặc aspirin (ASP; 0,5 mg/mL) hòa tan trong CO. Thức ăn của chúng cao chất béo và cholesterol (HFHC). Nhóm WT đại diện cho nhóm kiểm soát sức khỏe, được điều trị với lượng CO2 tương đương (0,1 mL/10 g/ngày) và được cho ăn theo chế độ ăn chow tiêu chuẩn.
Nghiên cứu điều tra bao gồm phân tích mô học và định lượng mảng xơ vữa động mạch thông qua sự kết hợp của nhuộm màu (hematoxylin-eosin và Oil-red O), kính hiển vi và kỹ thuật cắt lạnh. Hóa mô miễn dịch được sử dụng để phát hiện các đại thực bào và tế bào cơ trơn (SMC) thuộc xoang động mạch chủ. Ngoài ra, axit béo, lipid huyết thanh và các yếu tố gây viêm đã được định lượng.
Các phân tích phương Tây đã được sử dụng để xác định mức protein gen động mạch chủ. Kỹ thuật sắc ký lỏng khối phổ hiệu năng cực cao (UPLC-MS) đã được sử dụng để nghiên cứu số lượng axit béo furan và sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC) để định lượng astaxanthin. So sánh kết quả giữa các nhóm đã được kiểm tra về mức độ quan trọng bằng cách sử dụng phân tích phương sai một chiều (ANOVA) và thử nghiệm khác biệt nhỏ nhất có ý nghĩa (LSD) của Fisher.
Tác dụng của dầu điều trị đối với mảng xơ vữa động mạch ở động mạch chủ (A) và xoang động mạch chủ (B,C) . Ba con chuột trong mỗi nhóm được đưa vào để phân tích. Đối với B–C, 2 phần nối tiếp của mỗi con chuột đã được sử dụng và giá trị trung bình của hai phần từ một con chuột được đưa vào phân tích cuối cùng. Mảng xơ vữa động mạch ở động mạch chủ được phát hiện bằng phương pháp nhuộm O màu đỏ dầu (A) . Mảng xơ vữa động mạch và lắng đọng lipid trong xoang động mạch chủ được phát hiện tương ứng bằng nhuộm H&E (B) và nhuộm O màu đỏ dầu (C) . Đường viền của tổn thương xơ vữa động mạch trong xoang động mạch chủ được đánh dấu bằng một đường đứt nét màu đen. Kết quả nhuộm O màu đỏ dầu trong xoang động mạch chủ đã được bình thường hóa bởi vùng mảng xơ vữa động mạch. Dữ liệu được biểu thị dưới dạng trung bình ± SEM. Có ý nghĩa nếu các nhóm không có cùng một chữ cái (p < 0,05). CON, kiểm soát sức khỏe; CO, dầu ngô; FO, dầu cá; MO, dầu hến; ASP, aspirin.
So sánh vùng mảng xơ vữa động mạch và vùng tổn thương giữa các nhóm điều trị sử dụng nhóm CON làm cơ sở cho thấy nhóm CO bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Điều đáng ngạc nhiên là mặc dù có giảm nhẹ diện tích tổn thương, nhưng FO không có sự khác biệt về mặt thống kê so với kết quả CO. Nhóm MO được nhận thấy có tình trạng tốt hơn nhiều, với các vùng tổn thương và mảng bám tương đương với nhóm OASP và CON cá.
Việc định lượng SMC cho thấy xu hướng tương tự – số lượng SMC trong nhóm MO thấp hơn đáng kể so với nhóm CO và FO và tương đương với kết quả ASP. Ngược lại, kết quả đoàn hệ CO và MO không thể phân biệt được về mặt thống kê trong phân tích đại thực bào.
“Nhóm MO có diện tích mảng xơ vữa động mạch nhỏ hơn đáng kể, lắng đọng lipid thấp hơn, hàm lượng tế bào cơ trơn (SMC) thấp hơn và hàm lượng đại thực bào ở xoang động mạch chủ thấp hơn một chút so với nhóm FO. Nồng độ IL-1β, NF- trong huyết thanh κB và VCAM-1 tương đương nhau ở nhóm MO và FO và thấp hơn đáng kể so với nhóm CO.”
Điều thú vị là nhóm MO thể hiện mức độ biểu hiện protein p65NF-κB, p38MAPK và VCAM-1 thấp hơn đáng kể so với chuột FO. Do những điểm tương đồng về đặc điểm n-3 PUFA khác của MO và FO, quá trình điều hòa giảm con đường này tự cho thấy nó là cơ chế hoạt động đằng sau khả năng chống xơ vữa động mạch được cải thiện một cách bất ngờ của MO so với FO.
Nghiên cứu hiện tại cho thấy rằng dầu trai vượt trội hơn đáng kể so với dầu cá về hiệu quả chống xơ vữa động mạch trong hệ thống mô hình ApoE -/− ở chuột. Khi kết hợp với tính bền vững của việc thu hoạch trai so với cá, điều này cho thấy trai là một ứng cử viên lý tưởng để thay thế cá trong nghiên cứu về chứng xơ vữa động mạch và các biện pháp can thiệp trong tương lai.
Bs Lê Đình Sáng (Lược dịch)
TẠP CHÍ NGUỒN:
Bệnh viện Hữu nghị đa khoa Nghệ An là bệnh viện tuyến tỉnh đầu tiên trong cả nước đủ điều kiện thực hiện kỹ thuật ghép gan
Đoàn công tác của Bộ Y tế và Bệnh viện Bạch Mai đến thăm và làm việc tại Bệnh viện Hữu nghị đa khoa Nghệ An để hỗ trợ xây dựng bệnh viện hạng đặc biệt
Truyền thông và ứng dụng chuyển đổi số Y tế tại bệnh viện Hữu nghị đa khoa Nghệ An – Hưởng ứng ngày chuyển đổi số quốc gia năm 2024
Bệnh viện Hữu nghị Đa khoa Nghệ An tiếp tục thực hiện thành công lấy, ghép tạng từ người cho chết não
Copyright © 2024 BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ ĐA KHOA NGHỆ AN