Trong một nghiên cứu gần đây được công bố trên Tạp chí Tim mạch Hoa Kỳ (American Heart Journal), các nhà nghiên cứu khám phá hiệu quả của các phương pháp hiện tại để giảm nguy cơ biến cố tim mạch ở bệnh nhân tiểu đường loại 2 (Sau đây viết tắt là ĐTĐ típ 2).
Bệnh nhân ĐTĐ típ 2 có nguy cơ nhập viện, giảm chất lượng cuộc sống và chi phí tài chính do biến chứng tim mạch. Những biến chứng này chịu trách nhiệm cho hơn 50% số ca tử vong ở bệnh nhân ĐTĐ típ 2, với tỷ lệ mắc bệnh tiếp tục tăng.
Chất chủ vận thụ thể peptide-1 giống glucagon (GLP-1RA) và chất ức chế yếu tố đồng vận chuyển natri-glucose 2 (SGLT2i), cả hai đều được phát triển để giảm mức glucose, đã được chứng minh là cải thiện sức khỏe thận và tim mạch, cũng như tỷ lệ tử vong, ở những bệnh nhân ĐTĐ típ 2 có nguy cơ cao.
Trong nghiên cứu hiện tại, các nhà nghiên cứu phân tích xu hướng sử dụng các liệu pháp dựa trên bằng chứng để giảm nguy cơ tim mạch ở bệnh nhân ĐTĐ típ 2 theo thời gian.
Nghiên cứu liên quan đến những bệnh nhân trưởng thành từ 18 tuổi trở lên có ĐTĐ típ 2 và được kê đơn ít nhất một liệu pháp hạ glucose từ danh sách các nhóm thuốc, bao gồm insulin, sulfonylurea, metformin, thiazolidinedione (TZD), GLP1RA, DPP-4i và SGLT2i.
Nghiên cứu tập trung vào một số nhóm bệnh nhân, bao gồm những người bị suy tim (HF), bệnh tim mạch do xơ vữa động mạch (ASCVD) và bệnh thận mãn tính (CKD). Trong phân nhóm ASCVD, bệnh nhân có nhiều tình trạng khác nhau, chẳng hạn như bệnh động mạch ngoại biên, bệnh động mạch vành (CAD) và bệnh mạch máu não. Phân nhóm bệnh mạch máu não bao gồm bệnh nhân bị cơn thiếu máu cục bộ thoáng qua, đột quỵ trước đó và can thiệp động mạch cảnh.
Các nhà nghiên cứu đã tính toán điểm tổng hợp tim mạch bệnh tiểu đường (DCCS) để xác định hiệu quả của các kỹ thuật giảm nguy cơ tim mạch cho từng bệnh nhân. Điểm số này cho biết tỷ lệ phần trăm thuốc được khuyến cáo cho bệnh nhân để giảm nguy cơ tim mạch tối ưu.
Năm loại thuốc tiềm năng đã được đánh giá về tính đủ điều kiện cho bệnh nhân, bao gồm GLP-1RA, SGLT2i, statin, điều trị chống huyết khối, cũng như thuốc ức chế men chuyển angiotensin (ACEI), thuốc chẹn thụ thể angiotensin (ARB) và thuốc ức chế thụ thể angiotensin (ARNI) neprilysin.
Tổng cộng có 1.001.542 bệnh nhân từ 391 địa điểm đã được đưa vào nghiên cứu hiện tại. Nhóm thuần tập có độ tuổi trung bình khoảng 66 tuổi và bao gồm 512.807 nam giới.
Hơn 627.146 bệnh nhân có ít nhất một tình trạng nguy cơ cao, bao gồm ASCVD, suy tim hoặc CKD được ghi nhận. Cụ thể hơn, 518.270 bệnh nhân đã báo cáo ASCVD, 177.518 ghi nhận chẩn đoán HF và 230.519 người bị CKD. Ngoài ra, huyết áp tâm thu trung bình là gần 130 mmHg, trong khi chỉ số khối cơ thể trung bình (BMI) là khoảng 33 kg/m2 và huyết sắc tố A1C trung bình (HbA1C) là 7,4%.
Metformin là thuốc hạ glucose được kê đơn phổ biến nhất, với tỷ lệ sử dụng 73,1%. Insulin được sử dụng bởi 36,6% bệnh nhân, trong khi 12,5% sử dụng SGLT2i và 12,9% sử dụng GLP-1RA.
Việc sử dụng SGLT2i hoặc GLP-1RA ở bệnh nhân tăng từ 4,1% lên 28,8% từ năm 2013 đến 2019. Tuy nhiên, DCCS đã giảm từ 72% xuống 52% từ năm 2013 đến năm 2019 do sự gia tăng các lựa chọn thuốc đủ điều kiện trong DCCS.
Khoảng 18% trong số 627.146 bệnh nhân được chẩn đoán mắc ASCVD, HF hoặc CKD được dùng thuốc SGLT2i hoặc GLP-1RA. Bệnh nhân nam trẻ tuổi không có báo cáo HF, ASCVD hoặc CKD được kê đơn insulin thường được kê đơn thuốc SGLT2i hơn. Thuốc GLP-1RA thường được kê đơn cho bệnh nhân trẻ tuổi, phụ nữ, những người không có ASCVD hoặc HF được ghi nhận và những người dùng insulin.
Giới tính nam và chẩn đoán ASCVD có liên quan đến khả năng sử dụng GLP-1RA hoặc SGLT2i cao hơn. So sánh, những người lớn tuổi hoặc có chẩn đoán HF hoặc CKD ít có khả năng được kê đơn các loại thuốc này.
Bệnh nhân lớn tuổi, nam giới, những người có một số tình trạng y tế nhất định như ASCVD, CKD hoặc HF và những người dùng insulin có DCCS cao hơn. Mô hình tuyến tính phân cấp cho thấy giới tính nam và chẩn đoán CKD có liên quan đến DCCS cao hơn, trong khi chẩn đoán ASCVD hoặc HF tương quan với DCCS thấp hơn.
Kết quả nghiên cứu cho thấy một xu hướng tích cực trong việc sử dụng thuốc hạ glucose liên quan đến việc giảm nguy cơ tim mạch theo thời gian. Tuy nhiên, mặc dù có những lợi ích tiềm năng, việc sử dụng các thuốc này không phải là tối ưu, đặc biệt là ở những bệnh nhân có tình trạng nguy cơ cao.
Nghiên cứu hiện tại nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giáo dục cả bác sĩ tim mạch và bệnh nhân về những lợi ích bổ sung của các liệu pháp ngoài việc giảm glucose. Giáo dục các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe về những lợi thế của thuốc SGLT2i và GLP-1RA, cũng như cung cấp hướng dẫn về việc kê đơn các tác nhân này và áp dụng các mô hình chăm sóc dựa trên nhóm, có thể giúp thay đổi nhận thức về các loại thuốc này từ các tác nhân hạ glucose sang các công cụ để giảm nguy cơ tim mạch ở bệnh nhân ĐTĐ típ 2.
Bs Lê Đình Sáng – Khoa Nội tiết (Tóm lược)
Bệnh viện Hữu nghị đa khoa Nghệ An thông báo nội dung ôn tập: môn thi Ngoại ngữ, Kiến thức chung, Chuyên môn chuyên ngành kỳ thi tuyển viên chức năm 2024
Bệnh viện Hữu nghị đa khoa Nghệ An tiên phong trong phẫu thuật nội soi điều trị thoát vị đĩa đệm
Bệnh viện Hữu nghị đa khoa Nghệ An tổ chức tiêm vắc xin phòng sởi cho nhân viên y tế
Thông báo số 3292/TB-BV về việc Tuyển dụng viên chức năm 2024 của Bệnh viện Hữu nghị đa khoa Nghệ An
Copyright © 2024 BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ ĐA KHOA NGHỆ AN