Điện thoại CSKH: 19008082 - 0886.234.222
CHẤT LƯỢNG HÀNG ĐẦU - PHÁT TRIỂN CHUYÊN SÂU - NÂNG TẦM CAO MỚI
Thời gian làm việc: Khám bệnh: 7h-16h (Thứ 2-Thứ 6), 7h-12h (Sáng thứ 7), trừ nghỉ lễ ----- Tiếp nhận cấp cứu và điều trị nội trú 24/7, kể cả nghỉ lễ
CHẤT LƯỢNG HÀNG ĐẦU - PHÁT TRIỂN CHUYÊN SÂU - NÂNG TẦM CAO MỚI
CHẤT LƯỢNG HÀNG ĐẦU - PHÁT TRIỂN CHUYÊN SÂU - NÂNG TẦM CAO MỚI
Bệnh viện Hữu nghị Đa khoa Nghệ An > Bệnh Nội khoa > Covid-19 > Hiệu quả của chất ức chế JNK trong điều trị bệnh nhân COVID-19 từ trung bình đến nặng

Hiệu quả của chất ức chế JNK trong điều trị bệnh nhân COVID-19 từ trung bình đến nặng

Các chất ức chế Janus kinase (JNK) có đặc tính kháng vi-rút và chống viêm đã cho thấy kết quả đầy hứa hẹn trong việc điều trị bệnh nhân mắc bệnh vi-rút corona 2019 (COVID-19) có triệu chứng.

Trong một bài báo tổng quan hệ thống được đăng trên tạp chí Cochrane Database of Systematic Reviews , các nhà khoa học đã mô tả kết quả lâm sàng ở bệnh nhân COVID-19 nhập viện đã được điều trị bằng thuốc ức chế JNK cùng với phác đồ tiêu chuẩn.

 Nghiên cứu: Thuốc ức chế Janus kinase để điều trị COVID‐19. Tín dụng hình ảnh: StudioMolekuul/Shutterstock
Nghiên cứu: Thuốc ức chế Janus kinase để điều trị COVID‐19 . Ảnh: StudioMolekuul/Shutterstock

Lý lịch

Thuốc ức chế JNK được sử dụng như một biện pháp can thiệp điều trị ở những bệnh nhân mắc bệnh tự miễn dịch. Những loại thuốc này được dùng bằng đường uống (toàn thân) hoặc qua đường hô hấp để ngăn chặn một số chức năng của hệ thống miễn dịch.

COVID-19 do coronavirus 2 gây ra hội chứng hô hấp cấp tính nặng (SARS-CoV-2) là một bệnh hô hấp mới có liên quan đến nhiều triệu chứng khác nhau, từ nhiễm trùng đường hô hấp nhẹ đến hội chứng suy hô hấp cấp tính, viêm phổi nặng, suy đa cơ quan và thậm chí là tử vong. Sự kích hoạt bất thường do virus gây ra đối với con đường truyền tín hiệu interferon dẫn đến việc sản xuất quá mức các chất trung gian gây viêm, bao gồm cả cytokine và chemokine. Tình trạng viêm quá mức như vậy, còn được gọi là cơn bão cytokine , được coi là dấu hiệu chính của COVID-19 nghiêm trọng.

Ở những bệnh nhân COVID-19 nặng, thuốc ức chế JNK được sử dụng để ngăn chặn quá trình kích hoạt quá mức của hệ thống miễn dịch, dẫn đến cải thiện cường độ triệu chứng.

Các nghiên cứu được đưa vào tổng quan hệ thống

Tổng cộng có sáu thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên với hơn 11.000 người tham gia được đưa vào tổng quan hệ thống này. Các thử nghiệm được thiết kế để điều tra tác động của thuốc ức chế JNK toàn thân (baricitinib, tofacitinib và ruxolitinib) cùng với phác đồ tiêu chuẩn ở bệnh nhân COVID-19 nhập viện. Như một biện pháp kiểm soát thử nghiệm, các thử nghiệm bao gồm những người tham gia chỉ được điều trị theo phác đồ tiêu chuẩn. Hầu hết các thử nghiệm đã điều tra hiệu quả của baricitinib.

phác đồ tiêu chuẩn bao gồm sử dụng glucocorticoid, kháng sinh, thuốc chống đông máu, thuốc kháng vi-rút, cũng như các biện pháp can thiệp phi dược phẩm.

Tại thời điểm ghi danh, khoảng 65% người tham gia cần bổ sung oxy lưu lượng thấp, 23% cần thở oxy lưu lượng cao hoặc thở máy không xâm lấn, 4% cần thở máy xâm lấn và 8% không có bất kỳ hỗ trợ hô hấp nào.

Kết quả lâm sàng ở bệnh nhân mắc COVID-19 từ trung bình đến nặng

Phân tích có hệ thống các bằng chứng cho thấy bệnh nhân được điều trị bằng thuốc ức chế JNK cùng với phác đồ tiêu chuẩn có tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân thấp hơn cho đến ngày 28 và ngày 60 so với những bệnh nhân chỉ được điều trị theo phác đồ tiêu chuẩn.

Về kết quả lâm sàng như xuất viện còn sống hoặc nhập viện mà không cần chăm sóc y tế liên tục, không có sự cải thiện đáng kể nào được quan sát thấy ở những bệnh nhân được điều trị bằng cả thuốc ức chế JNK và phác đồ tiêu chuẩn. Tuy nhiên, so với những bệnh nhân chỉ được điều trị theo phác đồ tiêu chuẩn, những người nhận được cả hai nhánh điều trị cho thấy nguy cơ suy giảm kết quả lâm sàng thấp hơn. Sự suy giảm kết quả lâm sàng được định nghĩa là một yêu cầu mới về thở máy xâm lấn hoặc tử vong vào ngày 28.

Không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ các biến cố bất lợi được ghi nhận giữa những bệnh nhân được phác đồ tiêu chuẩn có và không có thuốc ức chế JNK. Tuy nhiên, tỷ lệ mắc các tác dụng phụ nghiêm trọng tương đối thấp hơn đã được quan sát thấy ở những bệnh nhân được điều trị bằng cả thuốc ức chế JNK và phác đồ tiêu chuẩn.

Tương tự, không có sự khác biệt về tỷ lệ nhiễm trùng thứ phát giữa hai nhóm. Một phân tích phân nhóm xem xét mức độ nghiêm trọng của COVID-19 và loại chất ức chế JNK được sử dụng không thể xác định bất kỳ nhóm bệnh nhân cụ thể nào được hưởng lợi ít nhiều từ chất ức chế JNK.

Những điểm chính

Đánh giá nhấn mạnh rằng việc sử dụng thuốc ức chế JNK có hệ thống cùng với phác đồ tiêu chuẩn có thể làm giảm tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân ở bệnh nhân nhập viện với COVID-19 từ trung bình đến nặng. Mặc dù không có sự cải thiện nào về kết quả lâm sàng đã được ghi nhận, nhưng nguy cơ suy giảm kết quả lâm sàng tương đối thấp hơn, cũng như tỷ lệ xảy ra các bất lợi nghiêm trọng thấp hơn đã được quan sát thấy khi sử dụng thuốc ức chế JNK.

Điều quan trọng là phân tích phân nhóm xem xét mức độ nghiêm trọng của bệnh và loại chất ức chế không xác định được bất kỳ nhóm bệnh nhân cụ thể nào ít nhiều nhạy cảm với phương pháp điều trị. Theo đề xuất của các nhà khoa học, cần có nhiều nghiên cứu hơn để điều tra tác động của thuốc ức chế JNK ở các quần thể bệnh nhân với mức độ nghiêm trọng của bệnh khác nhau.

Tổng quan không thể đánh giá hiệu quả và độ an toàn của thuốc ức chế JNK ở bệnh nhân COVID-19 không có triệu chứng hoặc có triệu chứng nhẹ vì thiếu bằng chứng.

Tạp chí tham khảo:
  • Kramer A. 2022. Thuốc ức chế Janus kinase để điều trị COVID‐19. Cơ sở dữ liệu tổng quan có hệ thống của Cochrane . doi : https://doi.org/10.1002/14651858.CD015209   https://www.cochranelibrary.com/cdsr/doi/10.1002/14651858.CD015209/full  

Bs Lê Đình Sáng (Dịch và tổng hợp)