Điện thoại CSKH: 19008082 - 0886.234.222
CHẤT LƯỢNG HÀNG ĐẦU - PHÁT TRIỂN CHUYÊN SÂU - NÂNG TẦM CAO MỚI
Thời gian làm việc: Khám bệnh: 7h-16h (Thứ 2-Thứ 6), 7h-12h (Sáng thứ 7), trừ nghỉ lễ ----- Tiếp nhận cấp cứu và điều trị nội trú 24/7, kể cả nghỉ lễ
CHẤT LƯỢNG HÀNG ĐẦU - PHÁT TRIỂN CHUYÊN SÂU - NÂNG TẦM CAO MỚI
CHẤT LƯỢNG HÀNG ĐẦU - PHÁT TRIỂN CHUYÊN SÂU - NÂNG TẦM CAO MỚI
Bệnh viện Hữu nghị Đa khoa Nghệ An > TIN TỨC > Tin y tế > Tác động của kháng kháng sinh đối với bệnh nhân ung thư

Tác động của kháng kháng sinh đối với bệnh nhân ung thư

Bệnh nhân ung thư có nguy cơ bị nhiễm trùng cao hơn do hệ thống miễn dịch suy yếu. Kháng kháng sinh (AMR) có thể ảnh hưởng tiêu cực đến bệnh nhân ung thư bằng cách giảm hiệu quả điều trị chống ung thư, gây nhiễm trùng mãn tính và tăng nguy cơ tử vong.

Kháng kháng sinh là gì?

Kháng kháng sinh (AMR) xảy ra khi các vi sinh vật, chẳng hạn như vi khuẩn, vi rút, nấm và ký sinh trùng, có được đột biến gen theo thời gian và sau đó phát triển sức đề kháng chống lại các can thiệp điều trị để loại bỏ chúng. Điều này gây khó khăn cho việc điều trị nhiễm trùng vi khuẩn và ức chế chuỗi lây truyền vi khuẩn.

Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) tuyên bố AMR là một trong mười mối đe dọa sức khỏe cộng đồng hàng đầu toàn cầu. Sử dụng không phù hợp hoặc lạm dụng thuốc kháng khuẩn là nguyên nhân chính dẫn đến sự phát triển AMR. Sự xuất hiện của vi khuẩn kháng thuốc làm cho các phương pháp điều trị kháng khuẩn hiện tại không hiệu quả, do đó làm tăng nguy cơ nhiễm trùng đe dọa tính mạng trong các thủ tục y tế khác nhau, chẳng hạn như phẫu thuật, cấy ghép nội tạng và hóa trị ung thư.

Tác động của AMR đối với quản lý ung thư

AMR có thể tác động tiêu cực đến kết quả điều trị ung thư và tăng tỷ lệ tử vong liên quan đến ung thư. Giảm số lượng và chức năng của các tế bào bạch cầu là dấu hiệu của ung thư, tạo ra tình trạng suy giảm miễn dịch ở bệnh nhân ung thư. Các liệu pháp điều trị ung thư khác nhau, bao gồm phẫu thuật, ghép tủy xương, xạ trị và hóa trị, tiếp tục ức chế hệ thống miễn dịch của bệnh nhân ung thư. Tất cả những yếu tố này cùng nhau làm tăng tính nhạy cảm của họ đối với nhiễm trùng.

Nhiễm trùng là nguyên nhân chính gây nhập viện cho một trong năm bệnh nhân ung thư đang điều trị. Các bệnh nhiễm trùng phổ biến nhất ở bệnh nhân ung thư nhập viện là viêm phổi do vi khuẩn và nhiễm trùng huyết. Theo ước tính hiện tại, tỷ lệ tử vong do nhiễm trùng huyết nặng là 8,5% ở bệnh nhân ung thư.

Thuốc kháng sinh được coi là lựa chọn hàng đầu để điều trị nhiễm khuẩn ở bệnh nhân ung thư. Trong kịch bản này, sự xuất hiện nhanh chóng của vi khuẩn kháng thuốc tạo gánh nặng cho việc quản lý ung thư, dẫn đến tiên lượng xấu và tăng tỷ lệ tử vong.

Tác động của AMR đối với liệu pháp miễn dịch ung thư

Các kháng thể nhắm vào các điểm kiểm soát miễn dịch, chẳng hạn như kháng nguyên tế bào lympho T gây độc tế bào 4 và thụ thể tử vong được lập trình 1, gần đây đã thu hút được sự chú ý to lớn vì hiệu lực cao của chúng trong điều trị các loại ung thư khác nhau.

Liệu pháp miễn dịch liên quan đến các chất ức chế điểm kiểm soát này có liên quan đến một loạt các tác dụng phụ liên quan đến miễn dịch, bao gồm phát ban da, viêm đại tràng, viêm tụy, viêm gan và viêm phổi. Những nghịch cảnh này được gây ra bởi sự điều hòa hệ thống miễn dịch do thuốc gây ra.

Việc điều trị các nghịch cảnh chịu lửa hoặc nghiêm trọng chủ yếu được thực hiện bởi các thuốc ức chế miễn dịch, chẳng hạn như steroid và thuốc ức chế yếu tố hoại tử khối u (TNF). Những loại thuốc này làm tăng tính nhạy cảm của bệnh nhân ung thư đối với nhiễm trùng. Hơn nữa, các chất ức chế điểm kiểm soát miễn dịch có thể làm tăng nguy cơ nhiễm trùng nhất định ở bệnh nhân ung thư, bao gồm bệnh lao và listeriosis.

Có bằng chứng cho thấy liệu pháp ức chế kháng nguyên tế bào lympho T 4 (ipilimumab) gây độc tế bào làm tăng tính nhạy cảm của bệnh nhân ung thư đối với các bệnh nhiễm trùng cơ hội, bao gồm nhiễm nấm aspergillus xâm lấn, viêm gan do cytomegalovirus và viêm phổi do pneumocystis.

Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng nguy cơ nhiễm trùng cao hơn đáng kể ở những bệnh nhân ung thư dùng thuốc ức chế miễn dịch, bao gồm corticosteroid và infliximab. Về thuốc ức chế điểm kiểm soát miễn dịch, bằng chứng hiện có cho thấy nguy cơ nhiễm trùng nặng cao hơn ở những bệnh nhân được điều trị kết hợp với nivolumab và ipilimumab so với những người dùng pembrolizumab. Sự thay đổi này có thể là do sự khác biệt về mức độ nghiêm trọng của các nghịch cảnh do thuốc gây ra.

Bệnh nhân ung thư bị nhiễm vi khuẩn chủ yếu trải qua điều trị kháng sinh kéo dài. Tuy nhiên, sử dụng lâu dài kháng sinh phổ rộng có thể làm tăng đáng kể nguy cơ xuất hiện AMR. Điều này càng làm phức tạp thêm việc quản lý bệnh suất và tử suất liên quan đến ung thư.

Hơn nữa, bệnh nhân ung thư biểu hiện tính nhạy cảm cao hơn với nhiễm trùng mắc phải tại bệnh viện, đây là một nguồn AMR chính khác. Nhiễm trùng mắc phải tại bệnh viện cũng là lý do chính khiến bệnh nhân ung thư phải nhập viện tại đơn vị chăm sóc đặc biệt (ICU).

Tác động của AMR đối với kết quả chăm sóc ung thư

AMR có tác động tiêu cực đáng kể đến việc quản lý ung thư vì sự phụ thuộc cao của bệnh nhân ung thư vào kháng sinh để ngăn ngừa và điều trị nhiễm trùng. Mặc dù sự tiến bộ trong các cơ sở chăm sóc y tế đã làm tăng đáng kể sự sống sót của bệnh nhân ung thư, phương pháp điều trị hiện tại liên tục làm tăng nguy cơ nhiễm trùng và phát triển AMR.

Theo các tài liệu có sẵn, khoảng 26% nhiễm trùng phát sinh ở bệnh nhân ung thư sau khi hóa trị phát triển đề kháng với kháng sinh dự phòng tiêu chuẩn. Người ta đã dự đoán rằng việc giảm hiệu quả kháng sinh 30 – 70% ở bệnh nhân ung thư huyết học sẽ dẫn đến 4.000 – 10.000 ca nhiễm trùng bổ sung và 500 – 1.000 ca tử vong hàng năm tại Hoa Kỳ.

Những lý do phổ biến nhất gây nhiễm trùng kháng kháng sinh bao gồm các tình trạng sức khỏe từ trước, các liệu pháp kháng sinh trước đó, đặt ống thông tiểu hoặc các nguồn khác liên quan đến nhiễm trùng tiết niệu. Đối với bệnh nhân ung thư, nhiễm trùng kháng kháng sinh làm tăng nguy cơ nhiễm khuẩn huyết dai dẳng, nhiễm trùng di căn, nhập ICU và tử vong. Những kết quả bất lợi này được quan sát thấy ở cả bệnh nhân người lớn và trẻ em bị ung thư huyết học hoặc khối u rắn.

Ở những bệnh nhân có khối u rắn, giảm bạch cầu trung tính liên quan đến hóa trị hoặc xạ trị, sự gián đoạn hàng rào giải phẫu bởi các thiết bị y tế hoặc thủ thuật phẫu thuật và tắc nghẽn do khối u nguyên phát hoặc di căn là nguyên nhân chính gây nhiễm trùng.

AMR đã được tìm thấy có tác động cao hơn đối với bệnh nhân ung thư thuộc một số dân tộc nhất định, bao gồm người Mỹ gốc Phi, Latinx và cộng đồng bản địa. Điều này có thể là do việc sử dụng kháng sinh không theo quy định cao hơn, không thể tiếp cận với các cơ sở chăm sóc sức khỏe, tỷ lệ đi du lịch cao hơn đến các quốc gia có gánh nặng AMR cao và việc làm cao hơn trong sản xuất thực phẩm từ động vật.

Giảm hiệu quả kháng sinh qua trung gian AMR làm tăng đáng kể chi phí chăm sóc sức khỏe trên toàn cầu. Tại Hoa Kỳ, AMR ước tính gây thiệt hại gần 20 tỷ USD cho chăm sóc sức khỏe và 35 tỷ USD mỗi năm do mất năng suất lao động. Người ta đã quan sát thấy rằng bệnh nhân ung thư bị nhiễm S. aureus kháng methicillin có nguy cơ nằm viện kéo dài cao gấp 3 lần so với những người không bị nhiễm trùng này, điều này làm tăng thêm chi phí chăm sóc sức khỏe.

TÀI LIỆU THAM KHẢO