Điện thoại CSKH: 19008082 - 0886.234.222
CHẤT LƯỢNG HÀNG ĐẦU - PHÁT TRIỂN CHUYÊN SÂU - NÂNG TẦM CAO MỚI
Thời gian làm việc: Khám bệnh: 7h-16h (Thứ 2-Thứ 6), 7h-12h (Sáng thứ 7), trừ nghỉ lễ ----- Tiếp nhận cấp cứu và điều trị nội trú 24/7, kể cả nghỉ lễ
CHẤT LƯỢNG HÀNG ĐẦU - PHÁT TRIỂN CHUYÊN SÂU - NÂNG TẦM CAO MỚI
Thời gian làm việc: Khám bệnh: 7h-16h (Thứ 2-Thứ 6), 7h-12h (Sáng thứ 7), trừ nghỉ lễ
Tiếp nhận cấp cứu và điều trị nội trú 24/7, kể cả nghỉ lễ
Bệnh viện Hữu nghị Đa khoa Nghệ An > TIN TỨC > Tin y tế > Phủ kỳ hằng trong y học cổ truyền

Phủ kỳ hằng trong y học cổ truyền

Kỳ nghĩa là khác, hằng nghĩa là thường. Phủ kỳ hằng tức là một loại cơ quan không giống với lục phủ ngũ tạng, về hình thể giống như phủ, về tác dụng giống như tạng. Phủ kỳ hằng bao gồm sáu cơ quan: não, tủy, cốt, mạch, đởm và tử cung.

1. Não, tủy xương

Não ở trong hộp sọ, trên đến đỉnh hộp sọ (thiên linh cái), dưới đến huyệt Phong phủ. Tủy ở trong xương sống, từ huyệt phong phủ đi xuống gọi là tủy sống. Tủy sống qua ống tủy liên thông với não, vì vậy gọi chung là não tủy. Còn tủy ở xương gọi là cốt tủy. Tuy nhiên đều do thận sinh ra. Thiên Ngũ tạng sinh thành sách Tố vấn nói: “mọi thứ tủy đều thuộc về não”. Thiên Hải luận sách Linh khu nói: “Não là bể của tủy”.

Công dụng của não tủy là chủ sự nghe nhìn của tai mắt, sự linh hoạt của thân thể và mọi hoạt động tinh thần. Cho nên não tủy được đầy đủ thì tai thính, mắt sáng, chân tay, thân mình vận động nhanh nhẹn, có thể làm được những công việc nặng nhọc, phức tạp. Não tủy hao kém (trống rỗng) thì đầu váng, tai ù, mắt hoa, tinh thần rũ rượi, uể oải; nặng thì xây xẩm, tối sầm mặt, ngã ra hôn mê. Não là cơ quan quan trọng của cơ thể, quan hệ rất lớn đến đời sống nên không được để hao tổn. Thiên Thích cấm luận viết: “Châm ở đầu, trúng vào não bộ thì chết ngay lập tức”. Thiên Quyết luận sách linh khu nói: “chứng thiên đầu thống đầu đau dữ dội, đau hết cả não, chân tay lạnh đến khớp xương thì chết không chữa được”. Những điều đó đều đã nói rõ: não là một cơ quan rất quan trọng trong cơ thể.

Tủy do thận sinh, chứa trong xương và nuôi dưỡng xương. Thiên Giải tinh vi luận sách Tố vấn nói: “Tủy là chất làm đầy xương”. Tủy ở trong xương, nếu đầy đủ thì xương chắc và ngược lại.

Xương có tính cứng rắn, chống đỡ cho cơ thể, là khung cho thân người. Xương được tủy nuôi dưỡng mới giữ được tính cứng rắn. Thiên mạch tinh vi luận sách Tố vấn nói: “Xương là chỗ ở của tủy, nếu đứng không được lâu, đi thì chao đảo là xương sắp suy bại”.

Như trên đã nói: thận có thể sinh tủy, tủy có chứa trong xương mà nuôi xương, tủy lại thông với não, cho nên thận, tủy, xương, não có quan hệ mật thiết với nhau.

2. Mạch

Mạch phân bố khắp toàn thân, có quan hệ chặt chẽ với tâm. Tâm chủ huyết mạch, chủ huyết lưu thông. Mạch với tâm kết hợp với nhau mới hoàn thành được mọi việc vận hành tuần hoàn của huyết dịch. Công dụng của mạch chủ yếu là:

Nơi để cho khí huyết vận hành không ngừng theo hướng nhất định, theo quỹ đạo nhất định để nuôi dưỡng toàn thân.

Trong quá trình vận hành, huyết dựa vào nguyên khí: “mạch là chỗ ở của huyết, lấy khí làm gốc” vì thế mà thông qua mạch đập, chẳng những có thể phản ánh lượng khí huyết trong mạch nhiều hay ít, vận hành nhanh hay chậm mà còn phản ánh được mối quan hệ giữa khí và huyết bình thường hay không. Cho nên dùng phép “xem mạch” để góp phần chẩn đoán bệnh là một trong những phương pháp quan trọng trong việc chẩn đoán của y học.

3. Tử cung

Tử cung còn gọi là “bào cung” nằm ở bụng dưới, trước trực tràng, sau bàng quang.

Tử cung chủ việc kinh nguyệt, chứa nuôi thai.

Kinh nguyệt và chửa đẻ do tử cung làm chủ. Tử cung có quan hệ chặt chẽ với hai mạch xung, nhâm. Hai mạch xung, nhâm đều bắt đầu từ tử cung ra. Xung mạch là chỗ 12 kinh mạch dồn tụ lại, sự thịnh suy của mạch nhâm có quan hệ với sự chửa đẻ. Mạch xung, nhâm thịnh thì có kinh nguyệt và có thể có thai, cho nên nói: “xung là bể huyết, nhâm chủ bào thai”. Nếu mạch xung, nhâm yếu, kinh nguyệt hết thì khả năng sinh con cũng không còn.

Để hành kinh và nuôi con, tử cung có quan hệ tới các tạng thận, can tàng huyết, tỳ sinh huyết, tâm chủ huyết mạch và hai mạch xung, nhâm.