Nhiễm trùng Acinetobacter đã trở thành nguyên nhân chính gây ra các bệnh nhiễm trùng mắc phải tại bệnh viện trên toàn thế giới. Acinetobacter được biết đến với khả năng sống sót trong thời gian dài trên bề mặt và thiết bị của bệnh viện, khả năng kháng nhiều loại kháng sinh, khả năng gây nhiễm trùng nghiêm trọng ở những bệnh nhân nguy kịch và nhiều đợt bùng phát được mô tả rõ ràng do nhiễm trùng từ một nguồn chung. Tỷ lệ tử vong thô tại ICU là khoảng 40%. Quản lý kháng sinh nghiêm ngặt và các biện pháp kiểm soát nhiễm trùng là rất quan trọng để ngăn ngừa sự lây lan của các bệnh nhiễm trùng Acinetobacter kháng nhiều loại thuốc . Ngoài ra, còn có nhu cầu cấp thiết về các lựa chọn điều trị mới.Acinetobacter là một tác nhân gây bệnh mới nổi có mức độ nguy hiểm ngày càng tăng.Không có định nghĩa chuẩn nào cho nhiễm trùng A. baumannii kháng nhiều loại thuốc , mặc dù nó thường ngụ ý khả năng kháng ít nhất 3 trong số 5 nhóm thuốc mà nếu không sẽ được xem xét để điều trị (tức là fluoroquinolones, amino-glycosides, cephalosporins, carbapenems và ampicillin-sulbactam). Kháng toàn phần, mặc dù có tên như vậy, đề cập đến khả năng kháng tất cả các β-lactams, fluroquinolone và aminoglycosides nhưng không bao gồm polymyxins và tigecycline. Các tổ chức chính xác định ngưỡng nhạy cảm với kháng sinh (Viện Tiêu chuẩn Lâm sàng và Xét nghiệm và Ủy ban Châu Âu về Thử nghiệm Nhạy cảm với Thuốc kháng khuẩn) có các ngưỡng khác nhau đối với một số loại kháng sinh chính được sử dụng để điều trị nhiễm trùng A. baumannii . Không có tổ chức nào trong số các tổ chức này cung cấp ngưỡng nhạy cảm với tigecycline.
Các yếu tố nguy cơ nhiễm trùng bệnh viện bao gồm thời gian nằm viện, phẫu thuật, điều trị bằng kháng sinh phổ rộng, đặt ống thông tĩnh mạch trung tâm hoặc ống thông tiểu, nhập viện vào khoa bỏng hoặc khoa chăm sóc đặc biệt, thở máy và vi phạm các biện pháp kiểm soát nhiễm trùng. Việc giải thích ý nghĩa của các phân lập A. baumannii từ da, hầu, đường tiêu hóa, niệu đạo, kết mạc và âm đạo phải được thực hiện cẩn thận vì các sinh vật này có thể xâm chiếm cả mô khỏe mạnh và mô bị mất sức sống ở những khu vực này. Hầu hết các trường hợp nhiễm trùng xảy ra ở các mô có hàm lượng chất lỏng cao, chẳng hạn như đường hô hấp, dịch phúc mạc và đường tiết niệu. Ống thông lưu trú cũng làm tăng khả năng phân lập biểu thị tình trạng nhiễm trùng thay vì xâm chiếm. Vị trí phổ biến nhất của nhiễm trùng A. baumannii là đường hô hấp và các biểu hiện lâm sàng thường gặp nhất của nhiễm trùng Acinetobacter là viêm phổi liên quan đến máy thở và nhiễm trùng máu.
Tỷ lệ tử vong thô do nhiễm trùng máu A. baumannii là 34,0% (43,4% ở bệnh nhân ICU so với 16,3% ở bệnh nhân không phải ICU). Tỷ lệ tử vong thô do nhiễm trùng máu A. baumannii ở nhóm bệnh nhân chăm sóc đặc biệt chỉ đứng sau nhiễm trùng huyết do Pseudomonas aeruginosa và Candida . Thời gian trung bình từ khi nhập viện đến khi phát hiện nhiễm trùng máu là dài nhất đối với A. baumannii , trung bình là 26 ngày kể từ thời điểm nhập viện.
Tác động của nhiễm trùng Acinetobacter kháng nhiều loại thuốc đối với kết quả điều trị của bệnh nhân rất khó đánh giá. Không chắc chắn liệu tỷ lệ tử vong thô cao liên quan đến nhiễm trùng A. baumannii trong ICU là do các bệnh lý nguy kịch tiềm ẩn của bệnh nhân hay do chính vi khuẩn này có tỷ lệ tử vong đáng kể. Acinetobacter dường như luôn liên quan đến thời gian nằm viện kéo dài. Trong một nghiên cứu có đối chứng ghép đôi hồi cứu, việc nhiễm Acinetobacter có liên quan đến thời gian nằm viện kéo dài hơn 5 ngày tại ICU. Một nghiên cứu thứ hai phát hiện ra rằng thời gian nằm viện kéo dài hơn thậm chí còn ở những bệnh nhân bị nhiễm trùng xâm lấn: Chỉ riêng việc nhiễm Acinetobacter có liên quan đến thời gian nằm viện kéo dài thêm 13 ngày, trong khi nhiễm trùng xâm lấn có liên quan đến thời gian nằm viện kéo dài thêm 23 ngày.
Phòng ngừa và kiểm soát nhiễm trùng nên tập trung vào 3 mục tiêu chính: ngăn ngừa sự phát triển của các chủng đặc hữu, phát hiện sớm nhiễm trùng và xâm chiếm A. baumannii đa kháng thuốc , và ngăn ngừa lây truyền chéo. Một chương trình quản lý kháng sinh nghiêm ngặt có thể làm giảm khả năng phát triển các chủng dịch bệnh kháng thuốc ngay từ đầu. Việc thường xuyên xem xét các mẫu nuôi cấy trong phòng thí nghiệm và các mô hình nhạy cảm với kháng sinh có thể tạo điều kiện phát hiện sớm các bệnh nhiễm trùng đa kháng thuốc. Trong các đợt bùng phát dịch bệnh, giám sát tích cực để phát hiện những bệnh nhân bị nhiễm khuẩn trước khi họ biểu hiện các bệnh nhiễm trùng xâm lấn có thể đẩy nhanh việc áp dụng kịp thời các biện pháp phòng ngừa tiếp xúc để hạn chế lây truyền. Các bước bổ sung để ngăn ngừa lây truyền chéo bao gồm vệ sinh tay cẩn thận, vệ sinh môi trường nghiêm ngặt và thông báo cho các cơ sở tiếp nhận về tình trạng xâm chiếm của bệnh nhân trước khi chuyển giao giữa các cơ sở. Cần nỗ lực đáng kể để xác định nguồn và kiểm soát ổ chứa vì hầu hết các đợt dịch của các chủng A. baumannii đa kháng thuốc đều là do ô nhiễm môi trường, có thể là do thời gian A. baumannii có thể chịu được tình trạng khô hạn kéo dài.
Trung tâm bệnh nhiệt đới – Bệnh viện Hữu nghị đa khoa Nghệ An là cơ sở chuyên điều trị hàng trăm bệnh nhân nhiễm khuẩn A.baumannii đa kháng sau thở máy hàng năm từ các khoa hồi sức tích cực chuyển đến hoặc bệnh viện tuyến trên chuyển về, mặc dù có rất nhiều khó khăn nhưng tỉ lệ đỡ/giảm cao, thời gian nằm viện ngày càng rút ngắn.
Đoàn công tác Sở Y tế tỉnh Xiêng Khoảng, tỉnh Hua Păn – Nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào đến thăm và chúc tết Bệnh viện Hữu nghị đa khoa Nghệ An
HƯỚNG DẪN MỘT SỐ ĐIỂM MỚI LIÊN QUAN ĐẾN QUYỀN LỢI KHÁM CHỮA BỆNH CỦA NGƯỜI BỆNH THEO NGHỊ ĐỊNH 02/2025/NĐ-CP VÀ THÔNG TƯ 01/2015/TT-BYT TẠI BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ ĐA KHOA NGHỆ AN
Cập nhật tình hình dịch bệnh liên quan đến phổi tại Trung Quốc và Khuyến cáo từ Bộ Y tế
Bệnh viện Hữu nghị đa khoa Nghệ An phát động ủng hộ Tết Vì người nghèo năm 2025
Copyright © 2025 BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ ĐA KHOA NGHỆ AN