Bệnh lupus ban đỏ do thuốc (Drug-induced lupus erythematosus – DILE) là một rối loạn tự miễn dịch giống lupus ban đỏ (lupus erythematosus – LE), thường xảy ra sau vài tháng đến nhiều năm dùng thuốc, tự khỏi sau khi ngừng sử dụng. Tương tự LE, DILE gồm ba nhóm chính: DILE hệ thống, DILE bán cấp và DILE mạn tính. Các loại thuốc thường gây ra DILE gồm hydralazine, procainamide, quinidine, isoniazid, diltiazem, liệu pháp điều trị đích và minocycline. Chẩn đoán DILE dựa trên tiền sử, lâm sàng, miễn dịch và cần phân biệt với LE để đưa ra xử trí kịp thời. LE và DILE đều là các rối loạn tự miễn dịch, có các đặc điểm lâm sàng và xét nghiệm tương tự nhưng nghiên cứu cho thấy hai bệnh này có các cơ chế bệnh sinh khác nhau. Hiện tại, chưa có phác đồ điều trị DILE cụ thể, với các trường hợp nghiêm trọng liều thấp corticosteroid trong thời gian ngắn có thể được chỉ định.
Cơ chế bệnh sinh của DILE vẫn chưa rõ ràng, tuy nhiên một số giả thuyết khác nhau đã được đưa ra.
2.1 Yếu tố di truyền
2.2 Một số cơ chế khác
Hình 1: Cơ chế gây lupus ban đỏ do thuốc
Biến đổi sinh học của thuốc khi vào trong cơ thể tạo thành các chất gây độc hại hoặc các thuốc dạng phân tử nhỏ liên kết với protein tạo thành các hapten kích thích hệ miễn dịch gây DILE.
Rối loạn điều hòa ngoại di truyền của các tế bào miễn dịch do các chất chuyển hóa của thuốc dẫn đến DILE. Trong các nghiên cứu, một số cơ chế liên quan đến tế bào T hoặc tế bào B được đưa ra như: tác động vào khả năng dung nạp của tế bào T, sản xuất các tế bào T tự hoạt động gây ra hiện tượng tự miễn dịch; phá vỡ khả năng dung nạp của tế bào B và góp phần gây bệnh bằng cách phá vỡ quá trình chỉnh sửa thụ thể thông qua ức chế con đường tín hiệu ERK; ức chế đại thực bào hấp thu các tế bào thymocytes apoptotic làm tích lũy các tế bào này, trở thành nguồn để hấp thu không kiểm soát được tự kháng nguyên.
Vai trò của “bẫy ngoại bào” (neutrophil extracellular trap – NET) và hệ thống miễn dịch bẩm sinh: Sau các kích thích cụ thể, các bạch cầu trung tính được hoạt hóa tạo các “bẫy ngoại bào” – đây là cấu trúc dạng mạng lưới chứa DNA nhân, các protein tế bào và chúng được bộc lộ kích thích miễn dịch gây DILE
Nguy cơ mắc DILE khác nhau giữa các loại thuốc và có thể được phân nhóm theo mức độ nguy cơ hoặc xác suất gây bệnh.
Với phân nhóm theo số người mắc DILE khi dùng thuốc, chia thành 5 mức độ nguy cơ: cao (> 5%), trung bình (1 đến 5%), thấp (0,1 đến 1%), rất thấp (khoảng 0,1%) và hiếm khi.
Nguy cơ cao: procainamide và hydralazine.
Nguy cơ trung bình: quinidine.
Nguy cơ thấp: penicillamine, carbamazepine, methyldopa, sulfasalazine, minocycline, chlorpromazine, propylthiouracil và isoniazid.
Nguy cơ rất thấp: statin (atorvastatin, fluvastatin, lovastatin, pravastatin, simvastatin) và chất ức chế yếu tố hoại tử u (TNF) (infliximab, etanercept adalimumab, golimumab, certolizumab), nhiều loại thuốc khác (isopropamide, propafenone, atenolol, clonidine, enalapril, labetalol, minoxidil, pindolol, prazosin, chlorpromazine, lithium carbonate, phenelzine, nitrofurantoin, ethosuximide, phenytoin, primidone, triidone, chlorthalidone, aminoglutethimide, levodopa, timolol dùng cho mắt, interferon alfa và IL2)
Hiếm khi gây DILE: các thuốc trong liệu pháp miễn dịch điều trị ung thư như ipilimumab, nivolumab và pembrolizumab.
Biểu hiện DILE là các phản ứng gây ra do thuốc tương tự như SLE, ít gặp biến chứng nghiêm trọng trên các cơ quan. Các loại thuốc khác nhau gây bệnh với biểu hiện lâm sàng và huyết thanh học khác nhau.
Hình 3. Bệnh nhân nữ 68 tuổi, điều trị vảy nến thể mảng bằng ustekinumab, sau tiêm mũi thứ 2 xuất hiện các mảng sẩn đỏ hình vòng bong vảy vùng tay chân thân mình (A), mệt mỏi và đau lan tỏa. Xét nghiệm có ANA speckled 1/200, anti-SSA, anti-SSB và anti-Jo1 dương tính, hình ảnh mô bệnh học có dày sừng nhẹ, lớp hạt bình thường và có hình ảnh từng ổ thoái hóa lỏng thượng bì (B). Bệnh nhân được chẩn đoán SCLE do ustekinumab và có chỉ định dừng thuốc. Hình ảnh (C) sau 8 tuần dừng thuốc, bôi mỡ betamethasone, uống corticoid và HCQ liều giảm dần.
5.1 Tiếp cận chẩn đoán: Tiếp cận để chẩn đoán bệnh nhân nghi ngờ DILE tương tự như trên người nghi ngờ mắc bệnh lupus ban đỏ hệ thống tự phát (idiopathic – SLE).
Tiền sử
5.2 Chẩn đoán và chẩn đoán phân biệt
5.2.1 Chẩn đoán: Không có xét nghiệm đặc hiệu hoặc tiêu chuẩn cụ thể để chẩn đoán DILE. Tuy nhiên DILE có thể được nghi ngờ khi:
5.2.2 Chẩn đoán phân biệt
SCLE tự phát: biểu hiện trên da của DILE thường lan rộng, điều này ít gặp ở SCLE tự phát. Anti Ro/SSA dương tính cao ở DILE đặc biệt DISCLE và sẽ âm tính ở khoảng 3/4 số bệnh nhân sau khi khỏi. Trên mô bệnh học, sự có mặt bạch cầu ái toan tại da không phân biệt được giữa SCLE do thuốc và tự phát.
Viêm mạch ANCA do thuốc đã biết gồm hydralazine, minocycline và propylthiouracil. Trái ngược với DILE, bệnh nhân bị viêm mạch do hydralazine có thể có biểu hiện nghiêm trọng trên thận, cần điều trị bằng thuốc gây độc tế bào hoặc ức chế miễn dịch khác giống như ở các trường hợp pANCA dương tính khác
6.1 Quản lý điều trị
6.2 Tiên lượng bệnh
Mặc dù việc kiểm soát các triệu chứng trên một số bệnh nhân có thể cần đến vài tháng nhưng nhìn chung tiên lượng của DILE khá tốt vì bệnh thường khỏi sau khi ngừng thuốc. Những biến chứng đe dọa tính mạng ít gặp. Khuyến cáo sử dụng các thuốc có thể gây DILE trên bệnh nhân LE vẫn chưa rõ ràng và có ít bằng chứng về việc nên tránh dùng thuốc này trên người có tiền sử LE.
Cơ chế bệnh sinh của DILE chưa rõ ràng và có sự khác biệt giữa các loại thuốc. Thuốc gây ra DILE thường được phân nhóm theo mức độ nguy cơ gây bệnh, trong đó thuốc có nguy cơ cao nhất gây ra DILE là procainamide, hydralazine. Biểu hiện lâm sàng phổ biến gồm sốt, đau cơ, đau khớp, viêm khớp và viêm các màng. Tần suất của những biểu hiện này thay đổi theo loại thuốc, hiếm gặp triệu chứng nghiêm trọng trên thận hay hệ thần kinh trung ương và các bất thường về huyết học. Các tự kháng thể xuất hiện trong DILE phụ thuộc vào loại thuốc được sử dụng.
Hiện tại, chưa có tiêu chuẩn chẩn đoán DILE rõ ràng, chủ yếu dựa vào tiền sử dùng thuốc, triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng và cần phải loại LE tự phát. Dừng thuốc nghi ngờ là điều trị ban đầu, một số cần điều trị cụ thể dựa theo biểu hiện lâm sàng của bệnh nhân. DILE thường có tiên lượng tốt, khỏi sau khi ngừng thuốc, thuyên giảm hoàn toàn có thể cần vài tuần đến vài tháng.
Để đặt lịch khám, Qúy khách hàng vui lòng liên hệ
🏥BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ ĐA KHOA NGHỆ AN
🏆Chất lượng hàng đầu – Phát triển chuyên sâu – Nâng tầm cao mới
🛣️Địa chỉ: Km5, Đại lộ Lê Nin, TP Vinh, Nghệ An
🌎Website: www.bvnghean.vn
🌍Facebook: bvhndknghean
☎️TỔNG ĐÀI CSKH + ĐẶT LỊCH KHÁM: 1900.8082 – 0886.234.222, Thời gian đặt lịch khám từ Thứ 2 đến Thứ 6.
Đoàn công tác của Bộ Y tế và Bệnh viện Bạch Mai đến thăm và làm việc tại Bệnh viện Hữu nghị đa khoa Nghệ An để hỗ trợ xây dựng bệnh viện hạng đặc biệt
Truyền thông và ứng dụng chuyển đổi số Y tế tại bệnh viện Hữu nghị đa khoa Nghệ An – Hưởng ứng ngày chuyển đổi số quốc gia năm 2024
Bệnh viện Hữu nghị Đa khoa Nghệ An tiếp tục thực hiện thành công lấy, ghép tạng từ người cho chết não
Phẫu thuật nội soi cắt khối tá tụy tại Bệnh Viện Hữu nghị đa khoa Nghệ An
Copyright © 2024 BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ ĐA KHOA NGHỆ AN