Điện thoại CSKH: 19008082 - 0886.234.222
CHẤT LƯỢNG HÀNG ĐẦU - PHÁT TRIỂN CHUYÊN SÂU - NÂNG TẦM CAO MỚI
Thời gian làm việc: Khám bệnh: 7h-16h (Thứ 2-Thứ 6), 7h-12h (Sáng thứ 7), trừ nghỉ lễ ----- Tiếp nhận cấp cứu và điều trị nội trú 24/7, kể cả nghỉ lễ
CHẤT LƯỢNG HÀNG ĐẦU - PHÁT TRIỂN CHUYÊN SÂU - NÂNG TẦM CAO MỚI
Thời gian làm việc: Khám bệnh: 7h-16h (Thứ 2-Thứ 6), 7h-12h (Sáng thứ 7), trừ nghỉ lễ
Tiếp nhận cấp cứu và điều trị nội trú 24/7, kể cả nghỉ lễ
Bệnh viện Hữu nghị Đa khoa Nghệ An > Bệnh Nội khoa > Bệnh Nội tiết - Chuyển hoá > Insulin tác dụng siêu kéo dài: Một chương mới trong liệu pháp điều trị đái tháo đường?

Insulin tác dụng siêu kéo dài: Một chương mới trong liệu pháp điều trị đái tháo đường?

Insulin tác dụng siêu kéo dài: Một chương mới trong liệu pháp điều trị đái tháo đường?

Mặc dù xét nghiệm HbA1c vẫn là tiêu chuẩn vàng để theo dõi glucose trong đái tháo đường type 1 và type 2, những hạn chế bao gồm việc không thể cung cấp dữ liệu về biến thiên glucose hoặc hạ đường huyết. Theo dõi glucose liên tục (CGM) khắc phục được một số vấn đề này và đã nổi lên như một giải pháp thay thế khả thi và thậm chí được ưa chuộng hơn so với HbA1c. Các thông số CGM cung cấp phép đo glucose theo thời gian thực và động học, giúp xác định những dao động và mẫu hình mà việc đo HbA1c đơn thuần không thể phát hiện được. Ngoài ra, các thông số CGM như thời gian trong phạm vi mục tiêu (TIR) cũng tương quan với nguy cơ biến chứng đái tháo đường.

Một cuộc họp đồng thuận năm 2019 đã xác định các mục tiêu lâm sàng và đưa ra khuyến nghị cho các thông số CGM trong đái tháo đường type 1 và type 2. Những khuyến nghị này từ đó đã được xác nhận và áp dụng trong chăm sóc lâm sàng thường quy. Các hệ thống theo dõi dựa trên đám mây cho phép xem xét dữ liệu CGM từ xa và hỗ trợ việc cung cấp hỗ trợ lâm sàng kịp thời. Mặc dù các nghiên cứu gần đây đã đánh giá tác động của các analog insulin lên các thông số CGM trong đái tháo đường type 1, các nghiên cứu trên đái tháo đường type 2 còn khan hiếm. Do các thông số CGM đang trở thành một phần không thể thiếu trong quản lý đái tháo đường, có nhu cầu ngày càng tăng về các nghiên cứu trên bệnh nhân đái tháo đường type 2, đặc biệt là xem xét tác động của các insulin tác dụng kéo dài mới.

Insulin icodec (icodec) là một chế phẩm insulin tác dụng siêu kéo dài mới với thời gian bán thải 196 giờ, điều này có được nhờ ái lực thấp với thụ thể insulin ở người và liên kết mạnh nhưng có thể đảo ngược với albumin huyết thanh người, làm cho nó phù hợp để tiêm một lần mỗi tuần. Hiệu quả và độ an toàn của icodec đã được đánh giá trong các nghiên cứu lâm sàng, nhưng tác động của nó lên các thông số CGM ở người bị đái tháo đường type 2 chưa từng dùng insulin chưa được nghiên cứu toàn diện. Trong số này của The Lancet Diabetes & Endocrinology, Richard M Bergenstal và cộng sự báo cáo một phân tích khám phá từ nghiên cứu ONWARDS 1, xem xét các thông số từ CGM ở những người bị đái tháo đường type 2 chưa dùng insulin được điều trị bằng icodec tiêm dưới da một lần mỗi tuần hoặc insulin glargine U100 (glargine U100) tiêm một lần mỗi ngày. Các thông số CGM được đánh giá trong năm giai đoạn trong suốt nghiên cứu…

So sánh thời gian tác dụng của insulin nền một lần/ngày và một lần/tuần

Các thông số CGM được đánh giá trong năm giai đoạn trong suốt nghiên cứu: khởi đầu điều trị (tuần 0-4), giữa thử nghiệm (tuần 22-26), kết thúc giai đoạn chính (tuần 48-52), kết thúc giai đoạn mở rộng (tuần 74-78), và theo dõi (tuần 78-83). Trong phân tích mới này, các tác giả báo cáo sự cải thiện có ý nghĩa thống kê về TIR, thời gian trong phạm vi chặt chẽ (TITR), và thời gian trên phạm vi (TAR) trong các giai đoạn giữa thử nghiệm, kết thúc giai đoạn chính, và kết thúc giai đoạn mở rộng ở những người được điều trị bằng icodec so với những người được điều trị bằng glargine U100. Trong ba giai đoạn điều trị đang tiếp diễn, tỷ lệ bệnh nhân trong nhóm icodec đạt được mục tiêu TIR khuyến nghị (>70%) cao hơn so với nhóm glargine U100. Trong cả ba giai đoạn, phần trăm trung bình của TAR thấp hơn có ý nghĩa thống kê ở nhóm icodec so với nhóm glargine U100. Thời gian dưới phạm vi (TBR) nằm trong giới hạn mục tiêu khuyến nghị ở cả hai nhóm. Thêm vào đó, thời gian trung bình của các cơn hạ đường huyết được phát hiện bằng CGM tương tự giữa hai nhóm trong suốt thử nghiệm.

Những phát hiện này có ý nghĩa gì đối với chăm sóc lâm sàng? Để có kết quả tích cực, cần kiểm soát đường huyết ổn định và bền vững, nhưng sự bất tiện của việc tiêm nhiều lần và nguy cơ hạ đường huyết và tăng cân có thể là rào cản đối với cả bệnh nhân và nhân viên y tế trong việc bắt đầu hoặc tăng cường điều trị insulin. Do đó, kết quả của nghiên cứu mới này rất quan trọng do tính ưu việt của icodec (tiêm một lần/tuần) so với glargine U100 (tiêm một lần/ngày) từ góc độ cả HbA1c (đã báo cáo trước đây) và một số thông số CGM bao gồm TIR, TITR, và TAR ở những người chưa dùng insulin bị đái tháo đường type 2. Thông tin về hạ đường huyết cũng đáng tin cậy, mặc dù dữ liệu chỉ bao gồm thời gian của các cơn hạ đường huyết được phát hiện bằng CGM. Những kết quả này phù hợp với những cải thiện tương tự về các thông số CGM được quan sát trong một phân tích khám phá trước đó so sánh icodec một lần/tuần với các insulin nền tác dụng hàng ngày (glargine U100 và degludec U100) ở những người đã dùng insulin bị đái tháo đường type 2 lâu năm.

Mặc dù những kết quả từ Bergenstal và cộng sự này nên làm tăng sự tin tưởng vào hiệu quả và độ an toàn của insulin tác dụng siêu kéo dài và đặc biệt là icodec, chúng cần được diễn giải một cách thận trọng. Các tác giả đã mô tả độc đáo tác động của hạ đường huyết như thời gian trung bình của các cơn thay vì liên hệ đến tần suất và mức độ nghiêm trọng, khiến việc đưa ra kết luận chắc chắn về nguy cơ hạ đường huyết trở nên khó khăn. Ngoài ra, các thuốc uống có thể làm tăng nguy cơ hạ đường huyết (ví dụ: sulfonylurea và glinide) đã được ngừng tại thời điểm ngẫu nhiên hóa. Do việc phối hợp sulfonylurea và insulin phổ biến trong điều trị đái tháo đường type 2, độ an toàn của icodec trong bối cảnh thực tế này cần được đánh giá thêm. Một khía cạnh đáng chú ý khác là thuốc so sánh trong nghiên cứu này là glargine U100 và do đó những phát hiện có thể không áp dụng trực tiếp cho các analog insulin khác thường được sử dụng trong chăm sóc lâm sàng như glargine U300 và degludec U100 và U200. Cần có thêm bằng chứng đảm bảo về độ an toàn của icodec ở người cao tuổi do họ có khuynh hướng bị hạ đường huyết và giảm nhận thức về hạ đường huyết.

Sự phát triển của icodec và các công thức insulin một lần/tuần khác là minh chứng cho sự thành công của công nghệ sinh học. Một cách thận trọng, chúng tôi cho rằng những insulin như vậy có thể báo hiệu những tiến bộ đáng kể trong chăm sóc đái tháo đường bằng cách thuận tiện hơn và ít gánh nặng hơn so với các phác đồ insulin nền hàng ngày cho bệnh nhân, đặc biệt là những người bị đái tháo đường type 2, tiềm năng cải thiện tuân thủ và độ an toàn và giảm nguy cơ biến chứng dài hạn. Cần có thêm dữ liệu để xác định rõ hơn vị trí của những insulin mới này trong quản lý đái tháo đường.

[Phần tuyên bố xung đột lợi ích:] MAK báo cáo nhận thù lao cho các bài giảng, thuyết trình, diễn đàn, viết bài báo, hoặc sự kiện giáo dục từ Abbott, Astrazeneca, Boehringer Ingelheim, Eli Lily, NovoNordisk, Roche, và Sanofi, và tham gia vào ban giám sát dữ liệu an toàn hoặc ban cố vấn cho Sanofi. SB đã nhận tài trợ nghiên cứu từ AstraZeneca và Bayer, phí diễn giả hoặc thù lao từ Astrazeneca, Eli Lilly, và Boehringer Ingelheim, phí diễn giả hoặc thù lao từ Novo Nordisk, ngoài công trình đã nộp, và hỗ trợ tham dự hội nghị từ Eli Lilly. AHB tuyên bố không có xung đột lợi ích.

Bs Lê Đình Sáng – Lược Dịch

Tài liệu tham khảo

  1. Beck RW, Connor CG, Mullen DM, Wesley DM, Bergenstal RM. Sai lầm của trung bình: tại sao chỉ sử dụng HbA1c để đánh giá kiểm soát đường huyết có thể gây hiểu nhầm. Diabetes Care 2017; 40: 994-99.
  2. Beck RW, Bergenstal RM, Riddlesworth TD, và cộng sự. Xác nhận thời gian trong phạm vi như một tiêu chí đánh giá kết quả cho các thử nghiệm lâm sàng đái tháo đường. Diabetes Care 2019; 42: 400-05.
  3. Battelino T, Danne T, Bergenstal RM, và cộng sự. Mục tiêu lâm sàng cho việc diễn giải dữ liệu theo dõi glucose liên tục: khuyến nghị từ đồng thuận quốc tế về thời gian trong phạm vi. Diabetes Care 2019; 42: 1593-603.
  4. Wilmot EG, Lumb A, Hammond P, và cộng sự. Thời gian trong phạm vi: hướng dẫn thực hành tốt nhất cho chuyên gia chăm sóc sức khỏe đái tháo đường Vương quốc Anh trong bối cảnh đại dịch COVID-19 toàn cầu. Diabet Med 2021; 38: e14433.
  5. Battelino T, Bosnyak Z, Danne T, và cộng sự. InRange: so sánh các analog insulin nền thế hệ thứ hai glargine 300 U/mL và degludec 100 U/mL ở người bị đái tháo đường type 1 sử dụng theo dõi glucose liên tục – thiết kế nghiên cứu. Diabetes Ther 2020; 11: 1017-27.

Lưu ý về bài báo: Đây là một bài bình luận khoa học về tiến bộ mới trong điều trị đái tháo đường, tập trung vào việc phát triển insulin tác dụng siêu kéo dài (icodec) và vai trò của theo dõi glucose liên tục (CGM) trong đánh giá hiệu quả điều trị. Bài viết đưa ra cả những ưu điểm và những điểm cần thận trọng khi sử dụng loại insulin mới này, đồng thời nhấn mạnh nhu cầu cần có thêm nghiên cứu để xác định rõ vai trò của nó trong thực hành lâm sàng.

NGUỒN: Lancet Diabetes & Endocrinology, The, 2024-11-01, Volume 12, Issue 11, Pages 777-779, Copyright © 2024 Elsevier Ltd