Điện thoại CSKH: 19008082 - 0886.234.222
CHẤT LƯỢNG HÀNG ĐẦU - PHÁT TRIỂN CHUYÊN SÂU - NÂNG TẦM CAO MỚI
Thời gian làm việc: Khám bệnh: 7h-16h (Thứ 2-Thứ 6), 7h-12h (Sáng thứ 7), trừ nghỉ lễ ----- Tiếp nhận cấp cứu và điều trị nội trú 24/7, kể cả nghỉ lễ
CHẤT LƯỢNG HÀNG ĐẦU - PHÁT TRIỂN CHUYÊN SÂU - NÂNG TẦM CAO MỚI
CHẤT LƯỢNG HÀNG ĐẦU - PHÁT TRIỂN CHUYÊN SÂU - NÂNG TẦM CAO MỚI
Bệnh viện Hữu nghị Đa khoa Nghệ An > TIN TỨC > Tin y tế > Tác dụng lâu dài của việc ăn nhiều cá giàu axit béo n-3 để ngăn ngừa bệnh tim mạch

Tác dụng lâu dài của việc ăn nhiều cá giàu axit béo n-3 để ngăn ngừa bệnh tim mạch

Trong một nghiên cứu gần đây được công bố trên tạp chí Frontiers in Physiology, các nhà nghiên cứu đã đánh giá mối liên quan giữa việc tiêu thụ nhiều hải sản, bao gồm cả cá nhỏ, và giảm tỷ lệ mắc bệnh tim mạch (CVD) và tỷ lệ tử vong trong thời gian 10 và 20 năm ở người lớn khỏe mạnh.

Nghiên cứu: Ăn nhiều cá giàu axit béo không bão hòa đa n-3 làm giảm tỷ lệ mắc bệnh tim mạch ở người trưởng thành khỏe mạnh: Nghiên cứu thuần tập ATTICA (2002-2022).

Tổng quan

Hải sản là một phần quan trọng của chế độ ăn Địa Trung Hải, và nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng tiêu thụ hải sản ngăn ngừa sự khởi phát hoặc tiến triển của CVD, dẫn đến bệnh tim mạch vành và tử vong.

Các nghiên cứu tiền cứu trên các đoàn hệ lớn đã báo cáo rằng ngay cả việc tiêu thụ khiêm tốn một khẩu phần cá mỗi tuần cũng có thể làm giảm 15% nguy cơ CVD.

Việc đưa cá và hải sản đáng kể vào chế độ ăn uống có liên quan đến nguy cơ mắc bệnh tim mạch vành, nhồi máu cơ tim, suy tim và tử vong do CVD thấp hơn đáng kể.

Tuy nhiên, một số đánh giá có hệ thống và phân tích tổng hợp đã báo cáo rằng trong khi tiêu thụ cá béo trắng, bao gồm cá nhỏ như cá mòi, cá cơm và cá thu, làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch vành, việc tiêu thụ cá nạc không có tác dụng tương tự.

Tác dụng có lợi của việc tiêu thụ cá béo đối với sức khỏe tim mạch là do hàm lượng axit béo không bão hòa đa omega-3 cao có trong những con cá này.

Về nghiên cứu

Trong nghiên cứu hiện tại, các nhà nghiên cứu đã kiểm tra một đoàn hệ tiềm năng bao gồm những người trưởng thành sống trong cộng đồng khỏe mạnh được lựa chọn dựa trên phân bố giới tính và tuổi tác ở Athens, Hy Lạp. Những người tham gia đã được ghi danh vào nghiên cứu thuần tập ATTICA, nghiên cứu kết quả liên quan đến bệnh tim mạch trong khoảng thời gian 10 và 20 năm.

Đánh giá cơ bản bao gồm các cuộc phỏng vấn để xác định thông tin nhân khẩu học như giới tính, tuổi tác, thu nhập, trình độ học vấn, lịch sử y tế và thói quen lối sống, chẳng hạn như hút thuốc, chế độ ăn uống và hoạt động thể chất.

Dựa trên trình độ học vấn và thói quen hút thuốc, những người tham gia được phân loại thành các nhóm trình độ học vấn thấp, trung bình và cao và những người hút thuốc hiện tại, không bao giờ và trước đây, tương ứng.

Một bảng câu hỏi bán định lượng về tần suất thực phẩm đã được sử dụng để tiến hành đánh giá chế độ ăn uống, đánh giá lượng tiêu thụ của một danh sách toàn diện gồm 156 loại thực phẩm và đồ uống trong một tháng.

Dữ liệu tần suất này được sử dụng để xác định số lượng khẩu phần mỗi tuần của mỗi mặt hàng thực phẩm hoặc đồ uống, sau đó được so sánh với Điểm chế độ ăn Địa Trung Hải để phân loại chế độ ăn kiêng ở mức tuân thủ thấp hoặc cao đối với loại Chế độ ăn Địa Trung Hải.

Các phép đo lâm sàng về chiều cao, cân nặng, chu vi hông và eo đã được thực hiện để tính chỉ số khối cơ thể (BMI) và tỷ lệ eo-hông.

Huyết áp tâm thu và tâm trương cũng được ghi lại, và các mẫu máu được lấy để đo nồng độ cholesterol huyết thanh. Các đánh giá tiếp theo được tiến hành sau 10 và 20 năm.

Kết quả

Kết quả báo cáo rằng chế độ ăn giàu hải sản, đặc biệt là cá nhỏ giàu axit béo không bão hòa đa omega-3, có liên quan đến việc giảm nguy cơ CVD không gây tử vong và gây tử vong sau 10 năm theo dõi.

Các phát hiện cho thấy 32,7% dân số nghiên cứu tiêu thụ chế độ ăn giàu hải sản và chỉ 9,6% trong số họ có lượng cá nhỏ cao trong chế độ ăn uống của họ. Những người tham gia tiêu thụ một lượng hải sản đáng kể (hơn hai phần một tuần) có nguy cơ mắc bệnh CVD thấp hơn 27% và nguy cơ tử vong do thấp hơn 74%.

Hơn nữa, nguy cơ tử vong trong 20 năm do CVD cũng giảm ở những người tham gia có thành phần hải sản lớn trong chế độ ăn uống của họ.

Những người tiêu thụ nhiều hơn một khẩu phần cá nhỏ giàu axit béo omega-3 mỗi tuần có nguy cơ mắc CVD thấp hơn đáng kể và nguy cơ tử vong trong 10 năm do CVD thấp hơn 76%.

Tuy nhiên, việc tuân thủ các khuyến nghị của Hướng dẫn chế độ ăn uống quốc gia Hy Lạp để tăng lượng cá béo nhỏ và tổng số hải sản chỉ lần lượt là 10% và 30%.

Các axit béo eicosapentaenoic và docosahexaenoic, vitamin như vitamin D và hàm lượng khoáng chất cao bao gồm canxi, magiê, phốt pho và kẽm trong cá giàu axit béo omega-3 nhỏ có lợi cho sức khỏe tim mạch.

Axit béo omega-3 có liên quan đến các đặc tính như giảm triglyceride, tác dụng chống huyết khối, chức năng nội mô và giảm viêm và stress oxy hóa.

Kết luận

Các phát hiện chỉ ra rằng chế độ ăn giàu hải sản, đặc biệt là cá giàu axit béo omega-3 nhỏ, có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch không gây tử vong và gây tử vong trong 10 năm.

Kết quả lâu dài liên quan đến CVD có thể được ngăn ngừa thông qua các can thiệp và khuyến nghị y tế công cộng thúc đẩy việc kết hợp hải sản vào chế độ ăn uống.

TÀI LIỆU THAM KHẢO