IBD (Inflamatory bowel disease) là nhóm bệnh lý viêm loét mạn tính có tính chất tự miễn của ống tiêu hóa. Bệnh thường tiến triển từng đợt, hay tái phát. Nhóm bệnh này bao gồm: viêm loét đại trực tràng chảy máu và bệnh crohn. Cho tới nay bệnh IBD vẫn chưa có thuốc điều trị khỏi, mục tiêu điều trị chung là đạt được và duy trì tình trạng lui bệnh, ngăn ngừa biến chứng, duy trì tình trạng dinh dưỡng và cải thiện chất lượng cuộc sống người bệnh.
Thuốc sinh học là một trong những nhóm thuốc điều trị bệnh IBD. Bản thân thuốc sinh học là các kháng thể đơn dòng (mAbs) hay globulin miễn dịch G (IgG), protein trị liệu được tạo ra bởi công nghệ sinh học ( gây đáp ứng miễn dịch trên động vật, thu kháng thể bằng sinh học phân tử), nhắm vào mục tiêu các protein gây viêm trong hệ thống miễn dịch như cytokine, inteleukin. Cấu trúc của thuốc sinh học bao gồm bốn chuỗi polypeptide, hai chuỗi nặng và hai chuỗi nhẹ. Có vùng biến đổi (vùng liên kết kháng nguyên – (Fab) và vùng cố định (Fc)
– Kháng TNF-α: infliximab, adalimumab, golimumab và certolizumab pegol
– Kháng Integrin – ức chế di chuyển tế bào T: natalizumab và vedolizumab
– Kháng cytokine – ức chế IL 12, IL 23: Ustekinumab
– Thuốc sinh học mới anti α4β7: Etrolizumab; natalizumab, vedolizumab; abrilumab; mirikizumab; Bimekizumab; ixekizumab
– Thuốc tương tự thuốc sinh học Biosimilar : Adalimumab-adbm, Infliximab-abda
– Các phân tử nhỏ ( Small molecule) bao gồm chất ức chế JAK (Janus Kinase) và chất điều biến Sphingosine – Phosphate -1 (S1P): Tofacitinib (Xeljanz®), Upadacitinib (Rinvoq®), Ozanimod (Zeposia®)
Trong đó, các thuốc sinh học được lựa chọn sử dụng đầu tiên cho IBD bao gồm infliximab, adalimumab và Ustekinumab
– Nhóm anti TNF-α: TNF-α là một cytokin quan trọng trọng phản ứng tự miễn dịch, liên quan tới tình trạng viêm của IBD. Các Anti TNF-α trung hòa TNF-α, ngăn chặn liên kết với thụ thể trong tế bào, góp phần làm giảm tình trạng viêm, đồng thời làm giảm sự xâm nhập của các tế bào viêm vào các vị trí viêm.
– Nhóm Anti integrin : Các thụ thể integrin là các protein có trên bề mặt của các tế bào nhất định. Chúng có chức năng làm cầu nối cho các tương tác tế bào – tế bào. Thuốc ức chế integrin phong bế sự tương tác của thụ thể integrin đặc hiệu ( Có trên bề mặt các tế bào viêm đang lưu hành) với 1 loại protein đặc hiệu ( có trên tế bào thành trong của mạch máu, làm ngăn chặn sự di chuyển của những tế bào viêm này qua mạch máu vào các vị trí viêm trong đường tiêu hóa.
– Nhóm anti cytokine ( IL 12, 23): Ngăn chặn sự liên kết của cytokine với thụ thể của nó và làm giảm hoạt động của các tế bào miễn dịch, làm giảm các triệu chứng ở bệnh nhân.
Bệnh Crohn | Bệnh Viêm loét đại tràng chảy máu |
Bệnh nhân Crohn mức độ trung bình và nặng ( điểm CDAI > 220) nên điều trị sớm với thuốc ức chế sinh học ngay từ đầu; Tốt hơn so với sau khi đã thất bại với thuốc điều trị kinh điển
Bệnh nhân crohn có yếu tố tiên lượng nặng: tuổi trẻ, tổn thương lớn, loét sâu rộng, tổn thương quanh hậu môn, hẹp rò ở thời điểm chẩn đoán; tiền sử cắt đoạn ruột. Thất bại với điều trị kinh điển Điều trị rò hậu môn phức tạp: Rò ngoài cơ thắt, rò trên cơ thắt
|
Điều trị nâng bậc: khi thất bại với các thuốc điều trị ở bậc trước đó
|
4. Liều lượng và đường dùng các thuốc sinh học
Tên thuốc | Liều nạp | Liều duy trì | Đường dùng |
Infliximab(Remicade) 100mg | 5mg/kg tuần 0,2,6 | 5mg/kg mỗi 8 tuần | Tiêm TM |
Adalimumab (Humira)
40mg/0,8ml
|
160mg tuần 0, 80mg tuần 2; 40mg tuần 4
|
40mg mỗi 2 tuần
|
Tiêm dưới da |
Ustekinumab (Stelara)
130/26ml; 90mg/ 1ml
|
< 55kg: 260mg
55 đến 85kg: 390mg >85kg: 520mg
|
90mg mỗi 8 tuần
|
Tiêm tĩnh mạch |
– Quá mẫn với các thành phần và tá dược của thuốc.
– Nhiễm trùng đang hoạt động, chưa được điều trị (Nhiễm khuẩn huyết, abcess, nhiễm trùng cơ hội).
– Lao tiềm ẩn (chưa được điều trị).
– Bệnh ác tính đang hoạt động.
– Bệnh nhân suy giảm miễn dịch: HIV, hay bệnh nhân ung thư đang điều trị hóa trị.
– Nhóm Anti TNF α : chống chỉ định với bệnh nhân Suy tim NYHA III, IV; Bệnh mất myelin (ví dụ, đa xơ cứng, viêm dây thần kinh thị giác).
– Nhóm Kháng integrin: chống chỉ định với bệnh nhân có tiền sử hoặc nguy cơ mắc bệnh não đa ổ (PML) – gây tổn thương não do virus.
Các thuốc sinh học thực chất là các kháng thể có tác dụng ức chế phản ứng miễn dịch gây viêm, bên cạnh đó cũng có thể ức chế các phản ứng miễn dịch có lợi bảo vệ cơ thể, gây bùng phát các tình trạng nhiễm trùng tiềm ẩn. Do đó trước khi điều trị thuốc sinh học, người bệnh cần được tầm soát loại trừ nhiễm trùng lao, viêm gan virus B, viêm gan virus C, nhiễm virus EBV, CMV, và các tình trạng nhiễm trùng tại cơ quan khác. Các bệnh nhân trước sử dụng thuốc sinh học được khuyến cáo tiêm vắc xin phòng bệnh đầy đủ, tránh tiêm các vắc xin sống giảm độc lực khi đang sử dụng thuốc sinh học.
Hiện tại, Bệnh viện Hữu nghị đa khoa Nghệ An đã bắt đầu triển khai điều trị thuốc sinh học cho các bệnh nhân IBD. Người bệnh IBD cần được nhập viện thăm khám, đánh giá tình trạng bệnh, làm xét nghiệm tầm soát và điều trị thuốc sinh học sớm nếu có chỉ định, góp phần nhanh chóng đạt được sự lui bệnh và ngăn ngừa sớm các biến chứng.
🏥BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ ĐA KHOA NGHỆ AN
🏆Chất lượng hàng đầu – Phát triển chuyên sâu – Nâng tầm cao mới
🛣️Địa chỉ: Km5, Đại lộ Lê Nin, TP Vinh, Nghệ An
🌎Website: www.bvnghean.vn
🌍Facebook: bvhndknghean
☎️☎️TỔNG ĐÀI CSKH + ĐẶT LỊCH KHÁM: 1900.8082 – 0886.234.222, Thời gian đặt lịch khám từ Thứ 2 đến Thứ 6
Sức khỏe bệnh nhân bị đột quỵ được CSGT Nghệ An cấp cứu kịp thời hiện đã ổn định
Cứu sống bệnh nhân ngừng tuần hoàn ngoại viện
Bệnh viện Hữu nghị đa khoa Nghệ An tổ chức họp hội đồng người bệnh cấp bệnh viện
Chào mừng kỷ niệm 94 năm ngày thành lập Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (26/3/1931 – 26/3/2025)
Copyright © 2025 BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ ĐA KHOA NGHỆ AN