Điện thoại CSKH: 19008082 - 0886.234.222
CHẤT LƯỢNG HÀNG ĐẦU - PHÁT TRIỂN CHUYÊN SÂU - NÂNG TẦM CAO MỚI
Thời gian làm việc: Khám bệnh: 7h-16h (Thứ 2-Thứ 6), 7h-12h (Sáng thứ 7), trừ nghỉ lễ ----- Tiếp nhận cấp cứu và điều trị nội trú 24/7, kể cả nghỉ lễ
CHẤT LƯỢNG HÀNG ĐẦU - PHÁT TRIỂN CHUYÊN SÂU - NÂNG TẦM CAO MỚI
CHẤT LƯỢNG HÀNG ĐẦU - PHÁT TRIỂN CHUYÊN SÂU - NÂNG TẦM CAO MỚI
Bệnh viện Hữu nghị Đa khoa Nghệ An > TIN TỨC > Tin y tế > Kháng kháng sinh làm gia tăng gánh nặng nhiễm trùng huyết như thế nào ?

Kháng kháng sinh làm gia tăng gánh nặng nhiễm trùng huyết như thế nào ?

Bs Lê Đình Sáng (Dịch và tóm lược)

Nhiễm trùng huyết, một tình trạng đe dọa tính mạng do phản ứng cực đoan của cơ thể đối với nhiễm trùng, đã trở thành mối đe dọa sức khỏe toàn cầu, ảnh hưởng đến 30 triệu người trên toàn thế giới và gây ra từ 6 đến 9 triệu ca tử vong mỗi năm.

Theo Tổ chức Y tế Thế giới, hầu hết các trường hợp tử vong do nhiễm trùng huyết đều có thể ngăn ngừa được. Để ngăn chặn những cái chết có thể ngăn ngừa được do nhiễm trùng huyết, tất cả chúng ta phải hiểu nhiễm trùng huyết là gì, cách nhận biết các yếu tố nguy cơ và cùng nhau nâng cao nhận thức về mối đe dọa sức khỏe này để có thể điều trị kịp thời.

Mối đe dọa kháng kháng sinh (AMR) ngày càng tăng là một thách thức lớn trong điều trị nhiễm trùng huyết. Khi nhiều mầm bệnh trở nên kháng thuốc kháng sinh hiện có, nhiều người có nguy cơ bị nhiễm trùng huyết hơn và có ít cơ hội điều trị thành công hơn. Nếu không kiềm chế AMR và đảm bảo rằng các bác sĩ lâm sàng có thể nhận ra các dấu hiệu nhiễm trùng huyết và nhanh chóng đưa ra các phương pháp điều trị tốt nhất, thì gánh nặng nhiễm trùng huyết toàn cầu sẽ tăng lên.

Nhiễm trùng huyết là gì?

Nhiễm trùng huyết phát sinh khi cơ thể phản ứng với nhiễm trùng làm tổn thương các mô và cơ quan của chính nó. Bệnh có thể dẫn đến sốc nhiễm trùng, suy đa tạng và tử vong nếu không được phát hiện sớm và xử trí kịp thời. Hầu hết các loại vi sinh vật có thể gây nhiễm trùng huyết, bao gồm vi khuẩn, nấm, vi rút và ký sinh trùng, chẳng hạn như những vi sinh vật gây bệnh sốt rét. Các vi khuẩn như Streptococcus pneumoniae, Haemophilus influenzae, Staphylococcus aureus, Escherichia coli, Salmonella spp. và Neisseria meningitidis là những tác nhân gây bệnh phổ biến nhất.

Các biểu hiện của nhiễm trùng huyết và sốc nhiễm trùng có thể là con đường lây nhiễm thường xuyên gây tử vong với vi-rút cúm theo mùa, vi-rút sốt xuất huyết và các mầm bệnh có khả năng lây truyền cao gây lo ngại cho sức khỏe cộng đồng, chẳng hạn như vi-rút cúm gia cầm và cúm lợn, hội chứng hô hấp cấp tính nặng, vi-rút corona, hội chứng hô hấp Trung Đông và gần đây nhất là virus Ebola và sốt vàng da.

Ai có nguy cơ?

Một số bệnh mãn tính, chẳng hạn như bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính, ung thư, xơ gan, AIDS và các rối loạn suy giảm miễn dịch khác có liên quan đến việc tăng nguy cơ nhiễm trùng huyết. Các yếu tố nhân khẩu học và xã hội, chẳng hạn như chế độ ăn uống và lối sống (ví dụ, sử dụng thuốc lá và rượu), nghèo đói, giới tính và chủng tộc, cũng ảnh hưởng đến sự xuất hiện của nhiễm trùng huyết. Tiếp cận với các hệ thống chăm sóc sức khỏe chất lượng, đặc biệt là chăm sóc đặc biệt có chất lượng, có liên quan chặt chẽ với tỷ lệ tử vong do nhiễm trùng huyết và nhiễm trùng huyết thấp hơn.

Nhiễm trùng huyết thường có biểu hiện lâm sàng xấu đi của các bệnh nhiễm trùng thông thường và có thể phòng ngừa được, chẳng hạn như nhiễm trùng đường hô hấp, đường tiêu hóa và tiết niệu, hoặc vết thương và da. Nhiễm trùng huyết thường không được chẩn đoán ở giai đoạn đầu khi các tác động của nó vẫn có khả năng hồi phục.

Nhiễm trùng huyết được ngăn ngừa và điều trị như thế nào?

Chẩn đoán sớm và quản lý lâm sàng kịp thời và thích hợp đối với nhiễm trùng huyết là rất quan trọng để tăng khả năng sống sót. Hội chứng thường biểu hiện ở các cơ sở chăm sóc sức khỏe, cả ở bệnh nhân nội trú và ngoại trú. Bệnh nhân nhập viện trong các đơn vị chăm sóc đặc biệt đặc biệt dễ bị nhiễm trùng và có nguy cơ cao phát triển thành nhiễm trùng huyết. Ở Mỹ, một phần ba số ca nhập viện dẫn đến tử vong là bệnh nhân nhiễm trùng huyết.

Điều trị nhiễm trùng huyết bao gồm thuốc kháng sinh cùng với dịch truyền tĩnh mạch và thuốc để giải quyết các triệu chứng cụ thể mà bệnh nhân có thể gặp phải. Chẩn đoán kịp thời và chính xác là rất quan trọng để xác định các loại thuốc có khả năng hiệu quả nhất trong việc chống lại nhiễm trùng tiềm ẩn và ngăn ngừa nhiễm trùng tiến triển thành nhiễm trùng huyết. Điều trị thích hợp nhiễm trùng huyết không chỉ yêu cầu điều trị nhiễm trùng cơ bản mà còn cần các biện pháp can thiệp y tế cứu sống như hồi sức bằng dịch truyền hoặc hỗ trợ các cơ quan quan trọng.

Kháng thuốc kháng sinh là một yếu tố chính quyết định sự không đáp ứng lâm sàng với điều trị và sự tiến triển nhanh chóng thành nhiễm trùng huyết và sốc nhiễm trùng. Bệnh nhân nhiễm trùng huyết với mầm bệnh kháng thuốc đã được phát hiện có nguy cơ tử vong tại bệnh viện cao hơn: ví dụ, ở Châu Âu, S. aureus , bao gồm cả S. aureus kháng methicillin , được phát hiện là sinh vật gây bệnh phổ biến nhất ở những bệnh nhân nhiễm trùng huyết có kết quả nuôi cấy dương tính trong các đơn vị chăm sóc đặc biệt. Tỷ lệ tử vong ước tính liên quan đến S. aureus kháng methicillin cao hơn khoảng 50% so với những bệnh nhân bị ảnh hưởng bởi S. aureus nhạy cảm với methicillin.

Những nỗ lực đang được tiến hành để xác định các nhóm kháng sinh mới và các phương pháp chẩn đoán và điều trị tốt hơn để xác định và điều trị nhiễm trùng. Nhưng những nỗ lực này không đủ để hạn chế tỷ lệ nhiễm trùng huyết.

Để ngăn chặn nhiễm trùng huyết, chúng ta phải giải quyết AMR.

Nó bắt đầu với phòng chống nhiễm trùng. Nhân viên y tế nên tuân theo các biện pháp vệ sinh hiệu quả, bao gồm rửa tay và chuẩn bị vị trí phẫu thuật thích hợp. Mọi người trên khắp thế giới nên được khuyến khích cập nhật thông tin tiêm chủng để ngăn ngừa nhiễm trùng và các cộng đồng phải nỗ lực để đảm bảo mọi người được tiếp cận với tất cả các loại vắc xin hiện có, ngay cả đối với các bệnh thông thường. Ở các nước đang phát triển, những nỗ lực giải quyết tình trạng suy dinh dưỡng và cải thiện việc cung cấp nước sạch và vệ sinh cũng có thể giúp giảm sự lây lan của các bệnh nhiễm trùng có thể dẫn đến nhiễm trùng huyết.

Việc sử dụng các phương pháp chẩn đoán và điều trị thích hợp cũng rất quan trọng để ngăn chặn sự phát triển của kháng thuốc. Chẩn đoán là cần thiết để xác định loại nhiễm trùng và giúp các bác sĩ lâm sàng lựa chọn phương pháp điều trị hiệu quả nhất. Các liệu pháp điều trị chậm trễ, không đầy đủ và không hiệu quả góp phần làm tăng nguy cơ mắc AMR và có thể làm tăng khả năng bệnh nhân bị nhiễm trùng huyết.

Tác giả bài viết

Tiến sĩ Konrad Reinhart

Tiến sĩ Reinhart là bác sĩ gây mê và bác sĩ chăm sóc tích cực được chứng nhận bởi hội đồng Y khoa Jena, Giáo sư thỉnh giảng BIH/Quỹ Charité Berlin Đức, đồng thời là Chủ tịch của Liên minh Nhiễm trùng toàn cầu , một tổ chức phi lợi nhuận với mục đích nâng cao nhận thức về nhiễm trùng huyết trên toàn thế giới và giảm tử vong do nhiễm trùng huyết lên 20 phần trăm vào năm 2020.